Hôm nay, tôi quyết định dừng viết Đ.T.H. Tôi nhận thấy rằng càng ngày tôi càng viết chậm đi. Từng trang giấy chỉ nhích lên chút một qua mỗi tuần. Tôi gặp vấn đề khi làm việc với các tư liệu. Tôi chán bản thân, với số kiến thức nền nhỏ nhoi, tôi khó lòng xây dựng được mọi thứ hoàn hảo. Nhưng khổ nỗi, tôi lại là một người tiểu tiết. Nên là khi muốn làm điều gì đó, tôi luôn muốn làm sao cho tốt nhất, từ cái to cho đến cái nhỏ, cho đến cả những thứ lặt vặt đi kèm. Điều đó khiến cho tôi phải tra cứu khá nhiều khi viết những tháng gần đây. Thế mới biết, càng dấn thân vào sâu, càng có nhiều thứ tôi cần phải trau dồi, tức là phải học, học thực sự ấy chứ không phải là học hỏi qua quýt, học để biết vậy, và nữa là cần phải trải nghiệm, phải thấy. Tôi chủ yếu lưu giữ những tra cứu, lượm lặt của mình trong một danh mục mà tất cả các mục đều ngang cấp với nhau. Và chúng nó bắt đầu trở nên dài thườn thượt, rối rắm, lạc loạn, khi lượng kiến thức tôi cần xem tới được bổ sung vào đống danh mục đó càng lúc càng trở nên nhiều không kể xiết. Trí nhớ của tôi đối với những thứ ngắn hạn vốn không được tốt. Sau khi chắp nối các mắt xích lại với nhau, tôi cho thế là xong và quên bẵng đi làm thế nào mà tôi lại có thể liên kết tất cả bọn chúng lại như thế. Đến chừng khi một mẩu xích nào đó bắt đầu lỏng lẻo. Tôi chỉ còn biết đần mặt ra tự hỏi, làm thế quái nào tôi biết đến cái thứ này và tại sao tôi lại chọn bày biện cái đống của khỉ đấy ở đây vậy. Thế nên, điều tất yếu xảy ra trong thời gian rồi là tôi cảm thấy khó khăn để có thể tiếp tục làm việc trên mớ hỗn độn giờ đây đã chình ình thành một vạt rừng bí ẩn mà tôi đã mất đi khả năng gọi tên bất kỳ loài thực vật nào bên trong nó.
——– Hắn ngồi đó, trũng thân hình trên khung hàng rào gỗ duy nhất sót lại, mà cùng với nó, có hàng trăm mớ dây kẽm gai uốn vòng, đan xen chằng chịt, hợp thành một vành đai cao gần mét rưỡi bao quanh lấy khu đất nông trại rộng tới ba ngàn mẫu và ngăn cách nó với vùng đất hoang rõ ràng là còn trù phú hơn về diện tích, ở bên ngoài. Phía sau lưng hắn, cánh đồng ngô vừa thu hoạch hết bắp, như mất hết sức sống, lả đi, chỉ chờ nắng làm cháy khô hết mấy đám lá xanh nữa thôi, là cả cánh đồng sẽ hoàn toàn khịu xuống, trở thành miếng mồi ngon béo bở cho một đám lửa đỏ và lớp đất óng mỡ.
Franky tự cuốn cho mình một điếu thuốc lá. Hắn cắn nghiến một đầu trong khi đang dở tay tìm diêm quẹt. Hơi rít đầu tiên làm hắn quặn phổi. Mồ hôi và khói thuốc bết lấy mớ tóc đã ngả vài mảng muối tiêu. Chiếc mũ cờ-rích-kê kiểu Úc-đại-lợi trên đầu hắn ỉu xìu, thấm nhẫy hơi mồ hôi. Nó trở nên nặng hơn, trườn xuống, càng lúc càng bám chặt lấy bộ óc mà hắn hằng cho là ưu việt so với hết thảy đám đông mà hắn biết. Điếu thuốc rơi tàn được một nửa, thì cũng là lúc não hắn trở nên chuếnh choáng bởi hàm lượng ni-cô-tin đã quá nhiều so với khả năng hấp thụ của buồng phổi hắn trong hai năm gần đây. Nó rỉn ra một thứ dầu đặc có mùi hắc ín xuyên qua lớp da đầu, phết lên phần lót của chiếc mũ đang đội một lớp đen xì nhớp nháp.
Hắn thôi nghĩ đến những mạch máu và lớp da thịt nơi hốc mắt. Khi vứt đi nửa điếu thuốc còn lại, tâm trí hắn mông lung điều gì đó trong chốc lát, rồi thì hắn bước tới chiếc xe mô-tô dựng bên gốc cây bao-báp. Vừa ngồi lên xe, hắn liền khởi động máy, tiếng ống bô nổ đèn đẹt, nhả khói từng cụm. Hắn lao xe đi, cua nửa vòng, rồi thẳng theo con đường hướng ra phía thác Pam mà chạy tới.
Thay vì đến đúng thác Pam, hắn lái xe đến bên mép vực cách đó cỡ ba trăm mét, nơi con sông A-rút-xi-ni vẫn cuồn cuộn chảy cách cả trăm mét bên dưới, dù cho nó đã không còn thuộc địa phận của cao nguyên Mô-cátx nữa. Mỗi khi ở chỗ này, không hiểu sao, trí óc hắn luôn gợi tìm lời giải đáp cho một thắc mắc chẳng ai quan tâm, rằng tại sao con sông không thuận theo thế đất để tạo dòng, nếu xét về khoảng cách thì cũng chỉ còn mười hai cây số nữa là nó cũng sẽ tới được bình nguyên Ha-ma-quiu-lớtx bên dưới, vậy mà, nó lại đột ngột đào xuyên qua cả chục lớp đất đá, xẻ nên một rãnh sâu kỷ lục lên đến tận một trăm mười mét bắt đầu ngay chỗ thác Pam, rồi đổ hết lượng nước qua lối đó, và dù đã giảm độ cao đi kha khá, sau khi bổ nhào xuống từ trên đỉnh, những khối nước khổng lồ đục ngầu xuất phát từ chân thác Pam vẫn tỏ ra là những tay phiêu lưu vội vàng hết cỡ, bằng chứng là chúng vẫn phăng phăng ào ạt trên con đường tiến tới những vùng đất thấp hơn bên dưới, gây nên một sự huyên náo ầm ĩ cho những ai đang phải đứng gần. Nguyên nhân của sự kiến tạo địa vực sông A-rútx vẫn còn là một điều bí ẩn với tất cả mọi người cho tới ngày nay. Không có nhà địa chất học nào, kể cả người ở trong vùng, nắm bắt hay tìm hiểu được chút ít, cũng chẳng có ghi chép xa xưa nào đề cập đến. Những người già nhất còn sống trong ngôi làng Môn-rô gần đó, hay ở thị trấn A-ráp cách vài dặm mà Franky biết và đã nói chuyện, chỉ là đám con cháu của mấy tay khai khẩn đất hoang, chân tay thì mạnh mẽ nhưng lại thiếu đi ý niệm về khoa học giáo dục; đời họ không hề biết chữ và cũng chẳng lấy đó làm phiền; họ cũng chẳng phiền khi những thế hệ kế cận tiếp tục giống họ, tuy họ biết nhiều thứ đổi mới đã và vẫn đang diễn ra liên tục không ngừng. Vì vậy mà ở trên khắp miền đất cao nguyên Mô-cátx đất đỏ phì nhiêu này, không tồn tại một sự uyên thâm trí giả nào mà hắn, Franky, có thể viện cầu đến cả. Bên đống lửa, vào những đêm ngập tràn sự lạnh giá do gió tuyết từ dãy An-đétx phả xuống, những câu chuyện ôn lại giữa những người già, những lời kể cho lũ trẻ, khi mỗi người đều đang cuộn mình trong một chiếc chăn ấm có thêu những bông hoa mặt trời rộ nở, hầu hết toàn là những bài học dạng ngụ ngôn, rồi vài kỷ niệm nông nổi được thêu dệt, hòa lẫn sau đó là những kinh nghiệm xương máu của cha, mẹ họ hoặc của chính họ thời trẻ, khi vật lộn với biết bao cánh đồng, biết bao vụ mùa canh tác, khi phải du nhập mấy dây chuyền nông phẩm sử dụng máy móc hay khi so kè lợi tức với những tay thương lái xương xẩu miền xuôi.
Thật là những biểu hiện của cuộc sống tầm thường, Franky đã luôn nghĩ thế chỉ sau một thời gian ngắn đặt chân lên cao nguyên Mô-cátx và quen dần với cuộc sống mới tại nơi này. Hắn vốn chẳng ưa gì ai; ngay khi đã hiểu thấu được mọi người ở đây, cẩn thận xếp đặt từng người một vào các nhóm trên thang phân loại đẳng cấp của riêng hắn, hắn trở nên sẵn sàng thóa mạ tất cả bọn họ, vào bất kể giây phút nào hắn phải bỏ công ra để thiết lập một mối tiếp xúc ngôn ngữ thành tiếng với họ, lúc gặp nhau trên đường, lúc làm việc chung ở cánh đồng ngô, lúc sinh sống tại khu nhà tập thể dành cho công nhân nông trại của Đôn Giôn, dù cho đó có là phụ nữ, trẻ em, hay những lão già, tệ hơn nữa là những tên mọi đen và nhất là cặp vợ chồng Đô-rít. Nhưng hắn chưa bao giờ làm thế, chưa bao giờ sổ toẹt mọi ý nghĩ trong đầu hắn ra trước mặt bất kỳ ai trong làng. Hắn đến đây là để tìm cách nén chặt lại những cảm xúc có thể nói là xấc láo, hoàn toàn đối chọi với bản chất của một quý ngài như hắn. Hắn đến đây để xóa bỏ đi quá khứ xấu xa của mình. Dù từng nghi ngờ bản thân, thì cho đến giờ phút này hắn chưa bỏ cuộc. Hắn là người duy nhất nắm được cái mục đích rõ ràng cho tương lai của hắn. Thỉnh thoảng, trái tim hắn bỗng nổi cơn thèm khát. Thế là hắn phóng ra đây, dựng xe cách đúng một khoảng tám mét, rồi đi ra sát bờ vực hòng nghe rõ tiếng gầm gào vang vọng của con sông khi lao qua một cái ghềnh đá ngay bên dưới. Hôm nay, hắn chẳng trông xuống những dòng nước xối xả như thường lệ, thay vì thế, hắn nhìn quả bóng mặt trời đang bắt đầu chui vào giữa những mỏm núi sắc nhọn đằng xa và cam chịu cho chúng đâm thủng. Hắn có nên nhảy xuống, hắn tự hỏi mình vậy. Hắn từ tốn độc thoại với bản thân thêm vài ba câu nữa. Hắn liếm môi, cái dư vị ngọt ngào thẳm sâu trong tiềm thức của hắn chầm chậm kéo tới. Hắn lấy thuốc lá và giấy cuốn trong bọc ni-lông nhỏ lấy từ túi áo để cuốn một điếu thuốc mới. Khó khăn lắm hắn mới quẹt được lửa châm cho điếu thuốc giữa những cơn gió lộng vào lúc chiều tàn. Hắn tự nhủ với bản thân nhất định sẽ làm được: “.. phải quên được nó đi.”. Hắn hít một hơi dài, nhắm mắt và khởi sự công cuộc trốn chạy. “Con sông”, hắn mở mắt, “tại sao chẳng một ai quan tâm đến sự giận dữ của mày cả, ngoại trừ tao?”.